Zalo

Thượng Hà Đình - Đóa sen xứ Quảng

20/01/2021

Shop hoa tươi Hà Lam - Thăng Bình trích bài của Tác giả Lê Thí - Báo Đà Nẵng chủ nhật, 8/3/2020 về nhân vật có tên Nguyễn Thuật được dân gian gọi là Thượng Hà Đình, một Đóa sen xứ Quảng. Tiểu sử Cụ được trích từ bài của tác giả Hoàn Nguyên

Nguyễn Thuật có hiệu là Hà Đình, sinh ra bên Hà Kiều, thuộc Hà Trì cửu khúc của làng Hà Lam. Dân gian gọi ông là cụ Thượng Hà Đình. Đời ông gắn với chữ hà (荷) là sen và ông xứng đáng được gọi là “Đóa sen xứ Quảng”!
 
Shop hoa tươi Hà Lam, Thăng Bình
 
Một nhân vật đặc biệt
 
Nguyễn Thuật hiệu Hà Đình, tự Hiếu Sinh, tước An Trường Tử, lúc nhỏ có tên là Nguyễn Công Nghệ, sinh năm 1842 tại làng Hà Lam, huyện Lễ Dương (nay là thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình). Lúc nhỏ ông là người nổi tiếng thông minh, văn hay, chữ viết “đẹp như thiệp Tàu”; đỗ phó bảng, hoạn lộ gần 40 năm dưới triều Nguyễn với chức Thượng thư kiêm Cơ mật đại thần hàm Chánh nhất phẩm. Ông là một nhân vật đặc biệt.
 
Thứ nhất, Nguyễn Thuật sinh ra trong một gia đình khoa bảng hàng đầu của Thăng Bình với 1 phó bảng (Nguyễn Thuật), 3 cử nhân (Nguyễn Tạo, Nguyễn Duật, Nguyễn Chức) và 3 tú tài (Nguyễn Đạo, Nguyễn Suyền, Nguyễn Kinh). Cha ông tuy không phải là nhà khoa bảng (chỉ đỗ tú tài), không phải là quan lớn nhưng là bậc cự phách tại địa phương, được mọi người kính nể cả về tài năng và đức độ, là một trong rất ít thường dân được viết trong Đại Nam liệt truyện, được tất cả các bậc “chi dân phụ mẫu” tham vấn mỗi khi đến nhậm chức tại địa phương” (theo Đại Nam liệt truyện).
 
Thứ hai, ông khá suôn sẻ trên đường khoa cử và làm quan. Năm 1861, thi Hương đỗ tú tài; năm 1867 đỗ cử nhân; năm 1868, thi Hội đỗ phó bảng. Khi ông đỗ Phó bảng, viên Chánh tổng là người làng viếng câu đối hay: Sư tư sắc Nguyễn Tấn sĩ, Ngụy Thám hoa, Trần Tam nguyên, học hành tảo vi Hương thủy bắc/ Khoa đệ tắc Tý tú tài, Mẹo cử nhân, Thìn phó bảng, tài danh cao chiếu Hải Vân nam.
 
Hồ Ngận dịch: Thầy thi tấn sĩ họ Nguyễn, Thám hoa họ Ngụy, Tam nguyên họ Trần, theo đòi học hạnh bắc sông Hương/ Khoa thi tú tài năm Tý, cử nhân năm Mẹo, phó bảng năm Thìn, lừng lẫy tài danh nam núi Hải shop hoa tươi hà lam thăng bình
 
Ông làm quan gần 40 năm, trải qua 8/13 đời vua triều Nguyễn, là người từng đứng đầu cả 6 bộ ở triều. Ông khởi đầu bằng chức Biên tu Hàn lâm viện nội các, thăng dần lên các chức Giáo đạo Dưỡng Thiện đường, Thị lang, Tham tri các bộ, Tuần vũ rồi Tổng đốc Thanh Hóa, Thượng thư, Cơ mật đại thần, Tổng tài Quốc sử quán, Đông các điện Đại học sĩ … gửi điện hoa huyện thăng bình
 
Ông cũng từng hai lần đi sứ sang Trung Hoa (1880, 1883), hai lần làm Chánh chủ khảo các khoa thi Hội năm 1883 và 1887. Trong lần đi sứ lần thứ nhất, ông đã đến thăm lầu Hoàng Hạc và phóng bút hai bài thơ Đăng Hoàng Hạc lâu và Đề Hoàng Hạc lâu, được các danh sĩ Trung Hoa hết lòng khen ngợi về sự tài hoa (của nét bút và ý thơ)! Khi làm quan ông cũng đã hai lần “đề nghị” triều đình không thăng chức cho mình. Ít ai giàu lòng tự trọng để làm một việc ngược đời như vậy!
Là một đại thần giữa một triều đình đầy phe phái luôn tìm cách hạ bệ nhau, lại bị người Pháp theo dõi thường xuyên, Nguyễn Thuật vẫn thẳng thắn bày tỏ chính kiến. Lần thứ nhất vào năm 1887, ông xin từ chức để về hưu vì gia đình ông có nhiều người tham gia Nghĩa hội (em trai ông là liệt sĩ của Nghĩa hội Quảng Nam).
 
Ông ngầm bày tỏ thái độ chọn gia đình và Nghĩa hội thay vì chức tước và triều đình. Lần thứ hai vào năm 1901, ông từ chối ký chẩn y và cương quyết từ quan để phản đối Nguyễn Thân giết nhiều Nghĩa sĩ của Phong trào Cần Vương Hà Tĩnh. Chính vì việc này mà Nguyễn Thuật là người có hai lần về hưu (năm 1906, Nguyễn Thân và Hoàng Cao Khải bị bãi chức, ông và Hồ Lệ được triệu trở lại Kinh để thay thế) gửi điện hoa ở Thăng Bình
 
Ông và gia đình đã có nhiều đóng góp cho quê nhà. Năm 1887, với cương vị Tuyên úy xử trí đại thần, ông đã vận dụng chính sách để 865 người thoát vòng lao lý, nhiều người trong số này sau đó đã tiếp tục tham gia các phong trào yêu nước như Tiểu La, Đỗ Đăng Tuyển, Mai Luyện, Châu Thơ Đồng… Gia đình ông đóng góp nhiều cho việc xây dựng Văn thánh huyện Lễ Dương, khu văn hóa Hà Kiều, đình làng, Nghĩa trủng… Làng Hà Lam là ngôi làng “Thiện tục khả phong” (Tục tốt đáng khen) cũng do sự vận động xây dựng đóng góp của gia đình ông shop hoa thị trấn hà lam
 
Về mặt văn hóa, Nguyễn Thuật là một tác gia lớn. Số lượng các trước tác của ông cả phần viết riêng và viết chung rất đa dạng gồm cả thơ, văn, nhạc, họa… Đặc biệt là phần lớn đã được khắc in và lưu trữ (ở Viện Viễn Đông Bác cổ và Viện Hán Nôm).
 
Cuộc đời luôn gắn với “sen”
 
Chữ Hà (荷) trong địa danh Hà Lam, tên làng quê ông cũng có nghĩa là sen. Nhà ông lại xây mặt trông ra bàu Hà Kiều (Hà Trì), một đoạn của Cửu khúc Hà trì (một kênh đào có 9 đoạn từ sông Ly Ly đưa nước về tưới cho cánh đồng làng Hà Lam) là nơi rộng nhất và cũng nhiều sen nhất. Đoạn dưới của Hà Trì có Hà Kiều, cây cầu bắc qua bàu sen (Cửu khúc Hà trì và Hà Kiều đều do gia đình Nguyễn Thuật chủ trì và vận động dân làng cùng xây dựng).
 
Cụ cử nhân Hồ Ngận (1893-1981) trong tác phẩm Quảng Nam Xưa & Nay (Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2004), khi nói về Nguyễn Thuật có viết: “Đến làng Hà Lam, phủ Thăng Bình về mùa hè, thấy một hồ sen, hương sắc thơm tươi, ấy là gần nhà Nguyễn Thuật, vì vậy ông lấy hiệu là Hà Đình” (trang 232).
 
Bản thân ông khi giới thiệu về ngôi nhà (quê hương) của mình cũng đã viết: “Thập lý hà phong hương bất đoạn/Bản kiều tây bạn thị ngô gia” (Mười dặm hương sen mùi còn thoảng/Bờ tây cầu ván ấy nhà ta).
“Nhà sen” của ông cũng đi vào thơ văn.
 
Cụ Đào Tấn, người rất kính phục Nguyễn Thuật trong bài Ký hoài Hà Đình công có 4 câu:
 
Tuế mộ hoài nhân ký viễn thư
Hà Đình phong cảnh cận hà như
Niên niên kỷ thủ nham đầu nguyệt
Thập nhị hồi viên đáo tác cư.
 
Tống Vũ dịch:
 
Nhớ người năm hết trao thư
Nhà sen phong cảnh thế nào hả anh?
Mải nhìn bóng nguyệt đầu ghềnh
Tròn mười hai độ nơi mình sáng soi.
 
Nguyễn Thuật là đại thần trong một triều đình phong kiến mà những năm sau này mọi quyền hành đều nằm trong tay người Pháp. Tuy vậy ông đã vận dụng tối đa những điều kiện trên cương vị của mình để giúp dân, giúp nước. Ông luôn nhận được sự yêu mến quý trọng của người dân, sự kính nể của người đương thời cả trong triều ngoài nội. Ông đúng là một cây sen lạ, mọc lên từ bùn đen nhưng nở hoa đẹp lung linh, tỏa hương ngào ngạt, bay xa vạn dặm, làm rạng rỡ không chỉ cho quê hương Thăng Bình, đất Quảng mà cho cả đất nước ta!
 
Tiểu Sử Cụ Hà Đình Nguyễn Thuật.
 
I. Thân Thế:
 
Cụ Nguyễn Thuật sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhân Dần tức là năm 1842 Tại làng Hà Lam huyện Lễ Dương,phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, nay tức là tổ 10 thị trấn Hà Lam , huyện Thăng Bình ,tỉnh Quảng Nam. Cụ là con của cụ ông Nguyễn Đạo , từng 2 lần đỗ tú tài. Cụ có hiệu là Hà Đình vì thế thường được gọi là Hà Đình Nguyễn Thuật .
 
II. Học vấn thi đỗ và làm quan:
 
Thuở nhỏ cụ rất thông minh học giỏi, cụ theo học trường Huấn Thăng Bình và trường Đốc Quảng Nam. Năm 1867 cụ thi đỗ Cử Nhân. Năm 1868 cụ thi đỗ Phó Bảng. Cũng năm đó cụ được bổ nhiệm vào Thị Lang Tại Nội Các. Làm việc được 1 thời gian ngắn cụ được thăng làm Giáo Đạo trường Dưỡng Thiện dạy các hoàng tử.
 
Năm 1881 cụ được thăng hàm Thương Tá Các Vụ, Lãnh Bộ Hộ Thị Lang rồi được cử làm Chánh Sứ sang Trung Quốc. Năm 1883 cụ được cử làm Phó Sứ cùng với Chánh Sứ là Phạm Thuận Dật sang Trung Quốc hội thương tại Thiên Tân. Khi hội thương xong về nước, cụ được bổ nhiệm làm Tuần Vũ Thanh Hóa.
 
Năm 1885 cụ được cử làm Khâm Sai Tả Trực Tuyên Úy rồi Thượng Thư Bộ Hộ, Thượng Thư Bộ Lại, thêm hàm Thái Tử Thiểu Bảo. Năm 1887 cụ được cử làm Tổng Đốc Thanh Hóa. Cùng năm này cụ được cử làm Chánh Chủ Khảo kỳ thi Hương.
 
Năm 1893 cụ được triệu về Kinh Đô Huế, phong Hàm Hiệp Tá Đại Học Sĩ , tước An Trường Tử lãnh Chức Thượng Thư Bộ Binh (Thượng Thư Bộ Binh có thể hiểu là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng bây giờ) sung Cơ Mật Viện Đại Thần. Năm 1896 cùng với cụ Trương Quang Đản soạn cuốn Sử Quán Thư Mục.
 
III. Bất mãn với Hoàng Cao Khải và Nguyễn Thân cụ từ quan về quê:
 
Năm 1901, cụ bất mãn với ông Hoàng Cao Khải và Nguyễn Thân về việc chém chết mấy chục người của Phong Trào Cần Vương do ông Phan Đình Phùng làm thủ lãnh, cụ xin từ quan về quê. Sau đó, Vua Thành Thái có chỉ triệu cụ và cựu Thượng Thư Hồ Lệ người Đại Lộc về Kinh thay thế 2 người trên. Cụ trở lại triều đình và giữ chức Thượng Thư cho đến ngày về hưu.
 
IV. Về hưu mở trường dạy học tại quê nhà:
 
Khi hết tuổi làm quan , cụ về hưu mở trường dạy học tạị quê nhà. Năm 1911 Cụ Từ Trần, thọ 69 tuổi.
 
Dân chúng Thăng Bình kính trọng Cụ gọi Cụ là: CỤ THƯỢNG HÀ ĐÌNH.

  • Ngày đăng: 20/01/2021
  • Bình luận: 0

Viết bình luận